Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội về cộng đồng quốc tế

I. Cộng đồng quốc tế
II. Hòa bình
A. Luân lý chiến tranh.
B. Luân lý hòa bình
Phụ lục : Đề tài các ngày Quốc tế Hòa bình
Ngoài những vấn đề chính trị quốc gia, Học thuyết xã hội của Giáo hội cũng đề cập đến chính trị quốc tế, từ những vấn đề hòa bình giữa các dân tộc cho tới vấn đề công bằng và phát triển cũng như vấn đề môi sinh. Vì thời giờ eo hẹp, chúng tôi chỉ xin dừng lại ở hai vấn đề: 1) Sự xây dựng cộng đồng quốc tế. 2) Hòa bình.

I. 
Cộng đồng quốc tế
Ngay từ khi mới thành lập, Giáo hội đã ý thức rằng Kitô giáo không phải là một tôn giáo của riêng một sắc dân hay chủng tộc nào, nhưng bao trùm tất cả thế giới, xét vì sứ mạng của Giáo hội là phục vụ chương trình hòa giải đại đồng của Thiên Chúa: Ngài đã muốn cho toàn thể nhân loại được hòa hợp với nhau trong tình thương hiền phụ của Ngài.
Dựa trên niềm tin ấy, Giáo hội mang rất nhiều tiềm lực để góp phần vào việc xây dựng cộng đồng quốc tế mà nhân loại đang khát vọng. Ngoài chứng tá cụ thể của những cộng đoàn tín hữu (đặc biệt là các tu sĩ) thuộc những chủng tộc khác nhau, Giáo hội còn xây dựng nhờ những nguyên tắc đạo lý đã được chín mùi trải qua bao nhiêu thế kỷ của lịch sử. Những nguyên tắc ấy được phát biểu trong giáo huấn cận đại qua thông điệp “Pacem in Terris” của đức Gioan XXIII, hiến chế “Vui mừng Hy vọng” của công đồng Vaticano II, thông điệp “Sollicitudo rei socialis” và “Centesimus Annus” của đức Gioan Phaolo II; đó là chưa kể bao nhiêu diễn văn sứ điệp gửi cho các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, UNESCO, FAO vv. hoặc dành cho ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh. Chúng ta có thể ghi nhận vài nguyên tắc chính như sau.
1) Tất cả nhân loại đều họp thành một dòng giống duy nhất. Việc xây dựng cộng đồng quốc tế phải đặt nền tảng trên niềm thâm tín đó. Thực vậy, những chủ nghĩa thực dân đế quốc, kỳ thị chủng tộc, nhiều lần đã giả thiết rằng trên thế giới này có những chủng tộc tiến hóa hơn những chủng tộc khác; từ đó những chủng tộc chậm tiến bị đối xử không khác với súc vật là bao. Việc nhìn nhận rằng toàn thể nhân loại thuộc về một dòng giống duy nhất đòi hỏi rằng hết mọi dân tộc phải được đối xử bình đẳng với nhau. Điều này một đàng khai trừ mọi hình thức kỳ thị, bóc lột; đàng khác đòi hỏi cho hết các dân tộc được quyền tham dự vào sự phát triển toàn diện của nhân loại. Nguyên tắc này cần được áp dụng không những là giữa những quốc gia với nhau, nhưng còn đối với những sắc tộc thiểu số trong một nước nữa.
2) Nền chính trị quốc tế cũng phải tuân theo những đòi hỏi của luân lý. Thực vậy, trong một quốc gia, luật pháp cần phải dựa trên một nền luân lý nếu không muốn rơi vào cảnh luật rừng, mạnh được yếu thua. Nguyên tắc đó cũng phải được áp dụng cho cộng đồng chính trị quốc tế nữa, nơi mà người ta dễ rơi vào nguy cơ luật rừng hơn nữa. Lịch sử cận đại cho thấy vài cường quốc (hoặc siêu cường) đã áp đặt chế độ bá quyền trên chính trường quốc tế, không đếm xỉa gì tới những kẻ thấp cổ bé họng. Trong thông điệp Pacem in Terris số 80, đức Gioan XXIII đã phát biểu bốn tiêu chuẩn điều hành bang giao quốc tế, đó là : chân lý, công bằng, liên đới, tự do. Nội dung của mỗi điểm được giải thích trong chính thông điệp vừa nói cũng như trong những văn kiện kế tiếp (thí dụ: PT 86-120). Nhằm cổ võ việc tôn trọng những tiêu chuẩn vừa nói, Giáo hội cổ võ việc thành lập những tổ chức quốc tế có thẩm quyền để bảo đảm an ninh và việc tôn trọng công bằng (PT 137-141; GS 84). Trong chiều hướng đó, Giáo hội ủng hộ và góp ý kiến xây dựng cho những cơ quan đã hay sẽ thành lập để gắn chặt thêm sự hợp tác giữa các quốc gia ở cấp hoàn cầu (thí dụ cơ quan Liên hợp quốc) cũng như cấp lục địa hay miền (PT 144; SRS 45; CA 21.27).
Tuy nhiên, việc thành lập cơ quan giám sát trật tự công bằng chưa đủ; còn cần phải nghĩ đến những cơ chế nhằm phát triển tình liên đới giữa các dân tộc, nhắm san bằng hố ngăn cách giữa những nước giàu và những nước nghèo trên thế giới hiện nay (PP 48-49; SRS 14-15; CA 28). Đặc biệt, đứng trước vấn đề nợ quốc tế, thông điệp Sollecitudo rei socialis (số 43) đòi phải xét lại toàn thể hệ thống thương mại, tiền tề và tài chính trên thế giới.

II. Hòa bình
Như vừa nói, hoạt động chính trị quốc tế cũng cần phải được chi phối bởi những tiêu chuẩn luân lý. Trong lãnh vực này, có một vấn đề đã ám ảnh lương tâm nhân loại cách riêng, cũng như đã gây ra nhiều băn khoăn, suy tư cho HTXH: đó là vấn đề chiến tranh và hòa bình. Có thể nói được là trong thế kỷ XX này, đã có sự chuyển hướng từ luân lý chiến tranh sang luân lý hòa bình.
A. Luân lý chiến tranh.
Có nhà thú-vật-học nhận xét rằng trong hết các loài thú trên mặt địa cầu, chỉ có loài người mới có cảnh chiến tranh chém giết lẫn nhau ! Không biết nhận xét đó đúng tới mức độ nào, nhưng dưới khía cạnh luân lý, vấn đề khẩn trương nhất mà chiến tranh đặt ra là cảnh con người giết con người đồng loại của mình : nó đã chẳng vi phạm đến luật của Thiên Chúa “chớ giết người” đấy ư ?
Trong quá khứ, thần học luân lý đã phải cố gắng dung hòa giữa một bên là giới răn tuyệt đối của Thiên Chúa, và bên kia là vấn đề thực tiễn, tựa như trường hợp của người bị tấn công: không lẽ cứ khoanh tay chờ chết ? Các tác giả đã tìm cách trả lời bằng cách phân biệt như sau : a) không bao giờ được phép giết người trực tiếp (sự ngăn cấm này có giá trị kể cả đối với các thai nhi, các người tàn tật); b) tuy nhiên, người bị tấn công có quyền tự vệ chính đáng để bảo vệ mạng sống của mình, cho dù sự phản ứng có thể đưa tới cái chết cho đối phương. Sự tự vệ chính đáng được áp dụng cho cá nhân cũng như cho tập thể. Dựa trên lập luận đó (tự vệ chính đáng) mà luân lý đã biện minh cho chiến tranhchính đáng (bellum justum) cũng như cho án tử hình (chống lại những người đe dọa trật tự xã hội hay tính mạng của các công dân). Như vậy, tuy rằng chiến tranh tự nó là xấu, nhưng có thể được biện minh khi có lý do chính đáng (tự vệ, bảo vệ nhân quyền bị vi phạm); dù sao, buộc phải dùng hết các phương tiện có thể để tránh chiến tranh, và phải tính xem liệu những thiệt hại do chiến tranh gây ra có tương xứng với những quyền lợi mà chúng ta muốn tranh đấu bảo vệ hay không.
Có thể nói được rằng những nguyên tắc trên đây đã được chấp nhận trong suốt bao thế kỷ. Thế nhưng, sang thế kỷ XX, với những trận thế chiến lôi kéo theo thiệt hại về sinh mạng của bao dân tộc, đặc biệt là với hai trái bom nguyên tử thả xuống Nhật năm 1945, nhiều nhà luân lý đã đặt lại toàn bộ vấn đề. Thành thực mà nói, những vấn nạn chống lại chiến tranh không phải chỉ do các nhà luân lý nêu lên, nhưng còn qua nhiều phong trào phản chiến đã tỏ thái độ cách cụ thể qua việc khước từ nghĩa vụ quân sự, hoặc bỏ súng ở chiến trường. Sự thay đổi bộ mặt chiến tranh (chiến tranh thế giới, chiến tranh hạt nhân, chiến tranh hóa học, chiến tranh vi khuẩn ...) cũng đã khiến Giáo hội xét lại lập trường trước vấn đề còn có chiến tranh nào “chính đáng” hay không ? Trong thông điệp Pacem in Terris, Đức Gioan XXIII đã đặt lại tính cách luân lý của vài loại vũ khí (PT 109-112). Công đồng Vatican II đã nghiên cứu tính cách luân lý của những cuộc chiến toàn diện, khi không còn phân biệt giới hạn của chiến trường, giữa quân nhân và thường dân (GS 79-81). Đức Phaolo VI thì lại nhìn tính cách luân lý dưới một khía cạnh khác: việc thi đua vũ trang đã thu hút biết bao khả năng phát triển kinh tế của các dân tộc đang khi còn thiếu thóc lúa, trường học, nhà thương (Populorum progressio 53). Mặt khác, đức Phaolo VI cũng phải giải quyết tính cách chính đáng của những cuộc nổi dậy chống lại ngụy quyền mà chúng tôi đã có dịp nói tới (PP 31).
Tất cả những văn kiện vừa nói đều nhất trí ở chỗ là cần phải xét lại tính cách luân lý của chiến tranh dựa trên một não trạng mới (GS 80). Tuy rằng nguyên tắc tự vệ cổ điển vẫn còn giá trị, nhưng khó lòng có thể áp dụng vào những cuộc chiến tranh hiện đại, khi mà những phương tiện sử dụng (sự tàn phá của khí giới) vượt qua sự cân xứng. Thực vậy, chiến tranh không giải quyết được gì hết, mà chỉ gây ra bao tổn thất tinh thần và vật chất. Đức Gioan Phaolo II đã đau lòng nhìn nhận thực tại phũ phàng đó trong thông điệp CA số 14; 17; 19.
B. Luân lý hòa bình
Lên án chiến tranh vì tính cách phản nhân đạo thì chưa đủ. Cần phải nghĩ đến việc xây dựng hòa bình nữa. Xưa kia bên Tây phương có ngạn ngữ : “muốn có hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh” (si vis pacem, para bellum); nhưng nay thì phải lật ngược lại câu nói : “nếu muốn tránh chiến tranh vì phải xây dựng hòa bình”. Dựa trên đạo lý cổ truyền, các đức Piô XII và Gioan XXIII đã trình bày bản chất và yêu sách của hòa bình.
Hòa bình không phải chỉ có nghĩa là không có xung đột; hòa bình là “tranquillitas ordinis”, sự yên tĩnh của trật tự, có nghĩa là tình trạng xã hội trong đó mỗi người có đầy đủ những gì cần thiết để sống yên ổn. Hòa bình là kết quả của công bằng (opus iustitiae, pax). Đức Phaolo VI đi thêm một bước nữa khi nói rằng sự phát triển là danh xưng mới của hòa bình (PP 76): thực vậy, không thể có hòa bình chân chính khi mà ba phần tư nhân loại còn thiếu ăn thiếu mặc ! Sau cùng, đứng trước những trạng huống của thế giới hiện tại (nợ quốc tế, di dân, ô nhiễm môi sinh ...), Đức Gioan Phaolo II thêm rằng hòa bình là hậu quả của tình liên đới (opus solidaritatis pax: SRS 39). Dĩ nhiên, những khái niệm vừa nói cần được diễn đạt ra những công tác cụ thể. Như chúng ta đã biết, ngoài những công tác ngoại giao của Tòa thánh cạnh các quốc gia và cơ quan quốc tế, đức Phaolo VI còn muốn dành ra ngày đầu năm dương lịch để học hỏi, suy nghĩ và cầu nguyện cho hòa bình. Việc kiến tạo hòa bình bắt đầu từ sự giáo dục chính con tim.
Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo bàn về hòa bình và chiến tranh ở các số 2302-2317; còn công bằng và liên đới trên thế giới thì được bàn ở các điều 2437-2442.

Phụ lục : ĐỀ TÀI 39 NGÀY THẾ GIỚI HÒA BÌNH (Từ 1968 đến 2006)
1) 1968: Năm Mới, ngày của hòa bình.
2) 1969: Việc cổ võ nhân quyền: đường dẫn tới hòa bình
3) 1970: Tự giáo dục hòa bình qua sự hòa giải
4) 1971: Hết mọi người là anh em của tôi
5) 1972: Nếu muốn hòa bình, hãy hoạt động cho công lý
6) 1973: Hòa bình có thể đạt được
7) 1974: Hòa bình cũng tùy thuộc ở bạn nữa.
8) 1975: Hòa giải là con đường tới hòa bình.
9) 1976: Những khí cụ thực của hòa bình.
10) 1977: Nếu muốn hòa bình, hãy bảo vệ sự sống
11) 1978: Vũ lực: không! Hòa bình: được!
12) 1979: Để đạt được hòa bình, hãy giáo dục về hòa bình
13) 1980: Chân lý là sức mạnh của hòa bình
14) 1981: Nếu muốn hòa bình, hãy tôn trọng tự do
15) 1982: Hòa bình, hồng ân Thiên Chúa được ủy thác trong tay con người.
16) 1983: Đối thoại hòa bình, yêu sách khẩn trương của thời đại.
17) 1984: Hòa bình nảy sinh từ con tim mới.
18) 1985: Hòa bình và tuổi trẻ đi sát nhau
19) 1986: Hòa bình, một giá trị không biên giới.
20) 1987: Phát triển và liên đới : hai chìa khóa mở cửa hòa bình.
21) 1988: Tự do tín ngưỡng: điều kiện để chung sống hòa bình.
22) 1989: Để xây dựng hòa bình, hãy tôn trọng các nhóm thiểu số.
23) 1990: Hòa bình với Đấng Tạo Hóa, hòa bình với toàn thể thụ tạo
24) 1991: Nếu muốn hòa bình, hãy tôn trọng lương tâm của mỗi người.
25) 1992: Các tín đồ tôn giáo liên kết để xây dựng hòa bình.
26) 1993: Nếu muốn hòa bình, hãy đi gặp gỡ người nghèo.
27) 1994: Gia đình là nơi xây dựng hòa bình của gia đình nhân loại.
28) 1995: Phụ nữ, nhà giáo dục hòa bình.
29) 1996 : Hãy cho con cháu chúng ta một tương lai Hòa bình
30) 1997 : Hãy cống hiến sự tha thứ, và bạn sẽ lãnh nhận Hòa bình
31) 1998 : Từ công bằng cho mỗi người, đến Hòa bình cho mọi người
32) 1999 : Tôn trọng nhân quyền : bí quyết hòa bình đích thực
33) 2000 : Bình an dưới thế cho người Chúa thương
34) 2001 : Đối thoại giữa các nền văn hoá,
                để xây dựng một nền văn minh tình thương và hoà bình
35) 2002 : Không có hòa bình thì không có công lý,
                không có công lý thì không có hòa bình
36) 2003 : Hòa bình dưới thế : một dấn thân thường xuyên
37) 2004 : Một dấn thân luôn mang tính thời sự : giáo dục về hòa bình
38) 2005 : Hãy chiến thắng sự dữ bằng điều thiện (Rm 12, 21)
39) 2006 : Trong Sự Thật, Xây Dựng Hoà Bình.

Tác giả Phan Tấn Thành, op

Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội về cộng đồng quốc tế Rating: 4.5 Diposkan Oleh: Admin