LỊCH SỬ NĂM THÁNH

Theo truyền thống Công Giáo bắt nguồn từ thời Cựu Ước, Năm Thánh (Holy Year) là một biến cố hay nói đúng hơn là một thời kỳ hồng ân mà qua đó Thiên Chúa ban ơn đặc biệt hơn khi con người mở lòng để canh tân và thống hối. Theo nguyên gốc Latinh Annum Jubilaei mà nhiều nhà chú giải Kinh Thánh giải thích là bắt nguồn từ tiếng Do Thái Jôbel ("thổi kèn tù và báo hiệu năm đại xá"),

Năm Thánh hiểu được là Năm Hồng Ân hay Ðại Xá, mà theo Luật Môisen, cứ mỗi năm thứ 7, đất đai phải được nghỉ ngơi và nô lệ được trả tự do, nợ nần được tha, đồng thời dân chúng phải sống trong đoàn kết, yêu thương, hoà giải với anh chị em và kẻ thù : "Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với (các) ngươi, đó là thời kỳ toàn xá : mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình, mỗi người sẽ trở về dòng họ của mình. Đối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt tỉa. Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với các ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng. Năm toàn xá đó, mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình" (Lv 25,10-13 ; xt. Xh 23,10-11 ; Lv 25,1-28 ; Ðnl 15,1-6). Tất cả những việc làm này là nhằm để tôn vinh Thiên Chúa. Cứ sau 49 năm thì toàn dân Do Thái phải mừng năm thứ 50 một cách trọng thể. Rõ ràng, truyền thống Năm Hồng Ân này là sự mở rộng luật Sabbát của người Do thái là trong một tuần 7 ngày, sau 6 ngày làm việc phải có 1 ngày nghỉ ngơi để thờ phượng Thiên Chúa.
Mặc dầu đi theo truyền thống của Cựu Ước, Kitô hữu đón mừng Năm Thánh với một chiều kích trọn vẹn hơn bởi vì Thiên Chúa đã thi ân cho nhân loại trong Ðức Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể. Chính việc Ðức Giêsu đến trong thế gian đã thực sự đem lại thời hồng phúc, thời cứu rỗi (Lc 4,16-30). Do đó, Năm Thánh là thời gian mà kẻ có tội hối cải được ban ơn tha thứ các hình phạt do tội gây ra, con người phải thống hối và canh tân cũng như hòa giải với Thiên Chúa và anh chị em. Ðể được hưởng những ơn lành Thiên Chúa ban cho trong Năm Thánh này, Kitô hữu phải nhận thức trước hết là Năm Thánh là nhằm thánh hóa cuộc sống, củng cố đức tin, tạo cơ hội thuận tiện để đem lại sự đoàn kết và hiệp thông huynh đệ trong lòng Giáo Hội và thế giới, và cổ võ tín hữu tuyên xưng đức Tin một cách chân thành và sống động hơn nơi Ðức Kitô, Ðấng Cứu Ðộ duy nhất của nhân loại. Cách riêng trong Năm Thánh 2000, kỷ niệm việc sinh hạ của Ðức Kitô cách đây hai ngàn năm (không đề cập vấn đề chính xác trong cách tính toán năm Chúa Giêsu sinh ra), đây là dịp Ðại Hồng Ân không chỉ cho kitô-hữu mà còn cho cả nhân loại với vai trò của Kitô giáo trong lịch sử 2000 năm qua của nhân loại (Tông thư Tertio Milllennio Adveniente, s.15).
Năm Thánh có 2 loại : thông thường và ngoại thường. Năm Thánh thông thường được tổ chức lần đầu tiên năm 1300 và được quy định cứ 100 năm cử hành một lần, sau đó rút dần xuống còn 50 năm, 33 năm và 25 năm như hiện nay để mỗi người có thể được hưởng nhờ ân xá của Năm Thánh ít là một lần trong đời. Nếu tính luôn Ðại Năm Thánh 2000 được khai mạc vào đêm 24.12.1999 và bế mạc ngày 06.01.2001, có tất cả 26 Năm Thánh thông thường. Ngoài ra, còn có 2 Năm Thánh ngoại thường trong thế kỷ XX là vào năm 1933 khi Ðức Thánh Cha Piô XI công bố kỷ niệm 1900 năm Ơn Cứu Ðộ được ban cho nhân loại qua sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Một Năm Thánh ngoại thường khác là vào năm 1983 khi Ðức Gioan Phaolô II mừng kỷ niệm 1950 năm Ðức Kitô tử nạn và phục sinh hầu đem ơn Cứu Rỗi.
Sau đây là danh sách các Năm Thánh được ghi lại trong lịch sử :
1. Năm 1300 : Năm Thánh đầu tiên trong Hội Thánh được Ðức Thánh Cha Boniface VIII (1294-1303) thiết lập năm 1300. Ðầu thế kỷ mới đã thôi thúc nhiều giáo hữu đến hành hương Rôma để kính viếng Ðền thờ Thánh Phêrô và Thánh tích khăn bà Vêrônica lau mặt Chúa Giêsu chịu thương khó. Làn sóng người hành hương đến Rôma rất đông và theo lời yêu cầu của họ, Ðức Boniface VIII quyết định ban hành ơn toàn xá trong Năm Thánh đầu tiên này và qui định cử hành Năm Thánh cứ mỗi 100 năm. Ðông đảo giáo hữu đến hành hương Rôma, viếng mộ các Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô ở Ðền thờ Thánh Phêrô và Phaolô.
2. Năm 1350 : Năm 1343, một đoàn đại biểu từ Rôma đi Avignon (Pháp) gặp Ðức Thánh Cha Clêmentê VI (1342-1352) đang cư ngụ tại đây, để xin có một Năm Thánh đặc biệt vào năm 1350. Lời yêu cầu này dựa theo truyền thống của Do-thái-giáo được ghi lại trong sách Lêvi là cứ sau 49 năm thì năm thứ 50 là Năm Hồng Ân. Một lý do khác của việc phái đoàn Rôma xin mở Năm Thánh, đó là thành phố Rôma đang gặp khó khăn chồng chất do việc vắng mặt Giáo hoàng quá lâu và họ hy vọng rằng biến cố Năm Thánh sẽ tạo một cơ hội thuận tiện cho Ðức Thánh Cha trở lại Rôma. Ðức Clêmentê VI đồng ý mở Năm Thánh 1350 và ban ơn toàn xá cho những tín hữu nào đến viếng mộ Thánh Phêrô và Phaolô cũng như viếng Ðền thờ Gioan Latêranô. Tuy nhiên, vì lý do chính trị, Ðức Thánh Cha không thể trở về Rôma. Do đó, có thể nói rằng Năm Thánh 1350 là Năm Thánh không có Ðức Thánh Cha.
3. Năm 1390 : Ðược tổ chức dưới triều Ðức Boniface IX (1389-1404). Thật ra, Năm Thánh này đã được vị tiền nhiệm là Ðức Urbanô VI (1378-1389) công bố với ý định là, Năm Thánh mới sẽ cử hành cứ mỗi 33 năm, đánh dấu thời gian Chúa Giêsu sống trên thế gian. Vào dịp Năm Thánh 1390, Ðền thờ Ðức Bà Cả ở Rôma được ghi thêm vào danh sách các Ðền thờ (Ðền thờ Thánh Phêrô, Thánh Phaolô, Gioan Latêranô) khách hành hương phải kính viếng để được ơn toàn xá.
4. Năm 1400 : Cử hành dưới triều Ðức Boniface IX (1389-1404) để cho các giáo hữu đổ xô về Rôma dịp thế kỷ mới. Vào năm 1400, Giáo Hội vẫn còn trong thời kỳ phân ly khi có cùng một lúc có các giáo hoàng khác nhau cư ngụ ở Rôma và Avignon (Pháp). Giáo hữu Pháp, Tây Ban Nha và Ý ở một số nơi đã không dự hành hương Năm Thánh đến Rôma dịp này vì bị các vua chúa đang xung đột với Ðức Thánh Cha ngăn cấm. Ðức Boniface IX đã thêm Nhà thờ Thánh Lôrensô ngoại thành, Thánh Maria ở Trastevere và Thánh Maria Rotonda vào danh sách 4 Ðền thờ truyền thống (Phêrô, Phaolô, Gioan Latêranô, và Ðức Bà Cả) khách hành hương phải viếng để được ơn toàn xá. Năm Thánh 1400 cũng còn khởi đầu cho ý nghĩa hành hương tạ tội.
5. Năm 1425 : Ðức Martinô V (1417-1431) đã khai mạc Năm Thánh 1425 và bắt đầu truyền thống mở Cửa Thánh ở Ðền thờ Thánh Gioan Latêranô, Nhà thờ Chánh toà của Giáo phận Rôma, mà sau này được Ðức Alexanđrô VI (1492-1503) đổi thành truyền thống khai mạc Năm Thánh bằng việc mở Cửa Thánh ở Ðền thờ Thánh Phêrô.
6. Năm 1450 : Nếu theo qui định của Ðức Urbanô VI, Năm Thánh mới phải được tổ chức vào năm 1433 (cứ mỗi 33 năm để tưởng nhớ việc Chúa Giêsu sống trên trần gian trong 33 năm), nhưng điều này đã không thực hiện. Ðược mở ra dưới triều Ðức Nicôla V (1447-1455), Năm Thánh 1450 được ghi nhận là một trong những Năm Thánh có nhiều người tham dự nhất trong lịch sử. Do số khách hành hương quá đông, đã xảy ra những vụ rối loạn trật tự công cộng và thiếu thốn vấn đề vệ sinh. Năm Thánh này còn được gọi là "Năm Thánh của những vị thánh" bởi vì trong số khách hành hương đến Rôma có những vị thánh tương lai như Thánh nữ Rita Cascia và Thánh Antôn thành Florence. Thánh Antôn thành Florence mô tả Năm Thánh 1450 như là "năm hoàng kim", ý chỉ sự hiệp nhất mới được tái lập sau cuộc phân ly trong Giáo Hội Lamã (1378-1417).
7. Năm 1475 : Theo qui định của Ðức Thánh Cha Phaolô II (1461-1471) trong một Tông sắc ban hành vào năm 1470, từ nay về sau, Năm Thánh sẽ được tổ chức cứ mỗi 25 năm và qui định này vẫn còn duy trì cho đến ngày nay đối với các Năm Thánh thường lệ. Năm Thánh thứ 7 vào năm 1475 như thế được tổ chức dưới triều Ðức Sixtô IV (1471-1484). Ðể mọi giáo hữu khắp nơi có thể qui tụ về Rôma dự Năm Thánh 1475, Ðức Sixtô IV đã đình chỉ ban hành ơn toàn xá ở những nơi khác trên thế giới trong suốt thời kỳ này. Sử dụng kỹ thuật in vừa được Johann Guttenberg phát minh, Ðức Thánh Cha đã cho in Sắc chỉ Năm Thánh, tập chỉ dẫn khách hành hương và kinh nguyện ở những nhà thờ. Cũng kể từ năm 1475, Năm Thánh được tổ chức cứ mỗi 25 năm. Ngoài ra, từ năm này trở đi, từ ngữ Năm Thánh (Holy Year) cũng được chính thức sử dụng cho đến ngày nay; trước đây những năm như thế gọi là Năm Hồng Ân hay Toàn Xá (Jubilee).
8. Năm 1500 : Vào ngày 24.12.1499, Ðức Alexanđrô VI (1492-1503) đã long trọng khai mạc Năm Thánh bằng nghi thức mở Cửa Thánh ở Ðền thờ Thánh Phêrô bằng cách dùng một chiếc búa đập vào bức tường được xây lên che Cửa Thánh. Như thế truyền thống mở Cửa Thánh ở Ðền Thánh Gioan Latêranô biến thành mở Cửa Thánh Ðền Phêrô. Ngài cũng muốn mở Cửa Thánh 4 Ðền thờ chính ở Rôma (Thánh Phêrô, Thánh Phaolô, Gioan Latêranô, Ðức Bà Cả). Kể từ lúc đó trở đi, việc đi qua Cửa Thánh các Ðền thờ này trở thành một trong những biến cố quan trọng nhất của Năm Thánh. Việc mở Cửa Thánh nói lên chính Ðức Kitô là Cửa thật và duy nhất qua đó con người mới có sự sống sung mãn.
9. Năm 1525 : Ðược cử hành dưới triều Ðức Clêmentê VII (1523-1534) và trong hoàn cảnh xung đột về vấn đề tôn giáo với Martinô Lutêrô ở Ðức vào năm 1517 khi vị lãnh đạo tương lai của Tin Lành này đặt lại vấn đề ân xá mà đã bị phần nào bị các chức sắc trong Giáo Hội lạm dụng. Ðiều đó cũng dẫn đến việc duyệt xét việc ân xá vốn là một trong những yếu tố căn bản của Năm Thánh.
10. Năm 1550 : Ðược Ðức Julius III (1550-1555) khai mạc vào ngày 08.02.1550, khi được đắc cử Giáo hoàng. Thật ra vị tiền nhiệm là Ðức Phaolô III (1534-1549) đã chuẩn bị Năm Thánh 1550 nhưng lại qua đời vào ngày 10.11.1549. Vì Năm Thánh bị khai mạc trễ do cuộc bầu cử người kế vị Ðức Phaolô III kéo dài nên Năm Thánh 1550 được bế mạc vào Lễ Hiển linh ngày 05.01.1551. Năm Thánh lần này mang ý nghĩa đặc biệt bởi vì đây là một cơ hội cụ thể để canh tân đời sống được Công đồng Triđentinô (1543-1563) đang đề ra. Do đó, những khách hành hương, đặc biệt người nghèo, được giáo hữu ở Rôma tiếp đón niềm nở.
11. Năm 1575 : Ðược cử hành dưới triều Ðức Grêgôry XIII (1572-1585). Ðây là Năm Thánh đầu tiên được tổ chức sau Công đồng Trent (1543-1563) nhằm thực hiện các cải cách trong Giáo Hội. Kể từ 1573, Toà Thánh có lệnh cho các chủ quán trọ không được tăng giá. Một số con đường mới được làm để tạo điều kiện dễ dàng cho khách hành hương. Có trên 300.000 người từ khắp Châu Âu về Rôma trong Năm Thánh 1575.
12. Năm 1600 : Dưới triều Giáo hoàng Clêmentê VIII (1592-1605), Năm Thánh 1600 được xem là một trong những Năm Thánh thành công nhất về số người tham dự và về lòng đạo đức của giáo hữu với hơn 300.000 khách hành hương từ khắp Châu Âu qui tụ về Rôma. Những chỗ trọ do các hiệp hội xây tại Rôma giúp giải quyết vấn đề ăn ở của khách hành hương mà đại đa số là người nghèo không có đủ tiền trả khách sạn.
13. Năm 1625 : Ðược tổ chức dưới triều Ðức Thánh Cha Urbanô VIII (1623-1644). Trong tình trạng biến loạn lúc bấy giờ tại Châu Âu do Cuộc Chiến 30 năm giữa Công Giáo và Tin Lành. Ðức Urbanô VIII đã ra lệnh cấm mang vũ khí và bạo động tại Rôma. Ðồng thời để ngăn ngừa một trận dịch ở miền Nam nước Ý có thể lan tràn đến Rôma, Ðức Urbanô VIII cũng đã thay thế việc viếng Ðền thờ Thánh Phaolô ngoại thành bằng việc viếng Nhà thờ Thánh Maria ở Trastevere. Như thế, đây là lần đầu tiên, những ai vì bệnh hoạn hay tù đày vẫn có thể hưởng hiệu quả thiêng liêng của Năm Thánh mà không phải đến Rôma. Biến cố này cũng thay đổi sâu xa ý niệm về ân xá mà ban đầu liên kết với việc hành hương Rôma.
14. Năm 1650 : Dưới triều Giáo hoàng Innôcentê X (1644-1655) và sau khi Cuộc Chiến 30 năm tàn phá Châu Âu đã kết thúc.
15. Năm 1675 : Dưới triều Giáo hoàng Clêmentê X (1670-1676) với việc tín hữu hành hương lần đầu tiên được vào trong Công trường Thánh Phêrô. Trước khi cử hành Năm Thánh 1675, Ðức Clêmentê X đã phong thánh cho vị thánh nữ đầu tiên của Nam Mỹ là Thánh Rose Lima, đồng thời cũng thiết lập Giáo phận đầu tiên của Bắc Mỹ là Giáo phận Québec. Vào thứ Năm Tuần Thánh của Năm Thánh 1675, Ðức Clêmentê X rửa chân cho 12 nông dân và mở tiệc cho 10.000 người ăn.
16. Năm 1700 : Ðược khai mạc dưới triều Ðức Innôcentê XII (1691-1700) nhưng vì qua đời nên được Ðức Clêmentê XI (1700-1721) kế vị bế mạc. Lần đầu tiên trong lịch sử Năm Thánh có vị Giáo hoàng qua đời. Nhiều người tiếng tăm đến hành hương Rôma, như Hoàng hậu Maria Cristina của Balan, đi chân không vào Ðền thờ Thánh Phêrô và mặc áo nhặm viếng tất cả các nhà thờ Công Giáo ở Rôma. Theo lời mô tả của một khách du lịch người Anh lúc bấy giờ về lòng đạo đức của người hành hương thì "Người ta tiếp tục qua Cửa Thánh Ðền thờ Thánh Phêrô bằng cách quì gối lết và họ không đến nỗi tôi không thể nào đi vào trong được".
17. Năm 1725 : Ðược cử hành dưới triều Giáo hoàng Bênêđictô XIII (1724-1758). Ngài thường để nhiều ngày cầu nguyện tại Nhà thờ Thánh Maria Minerva, cũng như triệu tập nhiều vị giảng thuyết nổi tiếng đến các nhà thờ tại Rôma.
18. Năm 1750 : Dưới triều Ðức Bênêđictô XIV (1740-1758), Năm Thánh 1750 được ngài nhấn mạnh đến ý nghĩa ăn năn thống hối và đền tội, và giá trị hành hương nằm ở chỗ chiến thắng tội lỗi. Thánh Lêônađô da Porto Maurizio đã cho dựng lên ở giữa hí trường Coliseum ở Rôma một cây thánh giá thật lớn ở giữa với 14 nhà nguyện để làm 14 Chặng đường Thánh giá.
19. Năm 1775 : Ðược Ðức Clêmentê XIV (1769-1774) chuẩn bị với Tông sắc L'Autore della nostra vita ("Tác Giả sự sống của chúng ta") lần đầu tiên được viết bằng tiếng Ý (các Tông sắc Năm Thánh trước đây bằng tiếng Latinh). Ðang khi chuẩn bị mở Năm Thánh 1775 bằng những loạt bài giảng, rước kiệu, và giảng đại phúc ở một số công viên tại Rôma, Ðức Clêmentê XIV qua đời qua đời vào ngày 22.09.1774. Vì thế Năm Thánh lần thứ 19 được Ðức Piô VI (1775-1779) khai mạc. Năm Thánh 1775 cũng là Năm Thánh ngắn nhất trong lịch sử.
20. Năm 1825 : Ðúng ra Năm Thánh thứ 20 phải được tổ chức vào năm 1800. Tuy nhiên, do tình hình Châu Âu lúc bấy giờ rối ren sau cuộc Cách mạng Pháp 1789 nên không tổ chức được. Nhất là vào năm 1797, quân đội Pháp chiếm đóng Rôma và Ðức Giáo hoàng Piô VI (1775-1799) phải chết trong cảnh lưu đày ở Pháp, rồi Ðức Piô VII (1800-1823) cũng bị Hoàng đế Napoléon bắt cầm tù ở Pháp từ 1809-1814.
Năm 1825, Năm Thánh lần thứ 20 được Ðức Thánh Cha Lêô XII (1823-1829) khai mạc mặc dầu có rất nhiều khó khăn như biên giới giữa các nước bị đóng vì những phong trào cách mạng có thể nổi lên. Năm Thánh 1825 là Năm Thánh duy nhất được mở cho mọi giáo hữu trong thế kỷ 19 và có trên 500.000 người hành hương Rôma dịp này.
21. Năm 1875 : Năm Thánh thứ 21 được cử hành vào năm 1850 dưới triều Ðức Piô IX (1846-1878) nhưng vì những biến cố chính trị tại Ý đã không cho phép thực hiện rầm rộ. Kể từ năm 1870, chính quyền nước Ý sáp nhập lãnh thổ Toà Thánh và Ðức Thánh Cha tuyên bố bị cầm tù trong Ðiện Vatican. Do đó, vào năm 1875, Cửa Thánh Ðền thờ Thánh Phêrô vẫn không được mở, mặc dầu Ðức Piô IX có tổ chức một cách đơn sơ Năm Thánh với giáo sĩ tại Rôma mà thôi.
22. Năm 1900 : Năm Thánh lần thứ 22 được Ðức Lêô XIII (1878-1903) khai mạc vào ngày 24.12.1900, sau 75 năm Cửa Thánh bị đóng. Năm Thánh 1900 ngoài việc đem lại ơn ích thiêng liêng cho giáo hữu, còn giúp nêu lên tình trạng bất công của xã hội lúc bấy giờ, cũng như phục hồi vai trò cần thiết của Giáo Hội và Ðức Thánh Cha trong thế giới. Việc chuẩn bị và tổ chức lần đầu tiên được sự hỗ trợ của chính quyền Ý. Ðể đánh dấu Năm Thánh đầu thế kỷ 20, Ðức Thánh Cha đã tôn phong 6 vị chân phước và 2 thánh (Thánh Gioan Baptiste de La Salle và Thánhh Rita de Cascia).
23. Năm 1925 : Năm Thánh 1925 dưới thời Ðức Thánh Cha Piô XI (1922-1939) có thể gọi là "Năm Thánh Hoà Bình" để nói đến bầu khí an lành giữa Giáo Hội và Quốc gia Ý. Do triều đại Ðức Piô XI mang đặc điểm truyền giáo được biểu hiện qua việc ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên tấn phong các Ðức Giám mục Trung Hoa, Năm Thánh 1925 cũng có tính cách truyền giáo. Năm Thánh này còn chứng kiến việc Tuyên thánh của Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, Thánh Gioan Vianney, và Thánh Gioan Ơđê. Có khoảng 500.000 người đến Roma năm này.
24. Năm 1933 : Ðây là một Năm Thánh ngoại lệ. Vào ngày 24.12.1932, Ðức Piô XI làm mọi người ngạc nhiên khi ngài công bố mở Năm Thánh ngoại lệ vào năm 1933 gọi là Năm Thánh Cứu Ðộ để kỷ niệm Chúa Giêsu chịu chết cho nhân loại hầu đem ơn cứu rỗi cách 1900 năm về trước. Có vài thay đổi trong Nghi thức phụng vụ của Năm Thánh này, như việc mở Cửa Thánh được ấn định vào Chúa Nhật Lễ Lá chứ không phải vào Ðêm Vọng Giáng Sinh, và việc đóng Cửa Thánh vào thứ Hai Tuần Thánh năm sau.
25. Năm 1950 : Do Ðức Thánh Cha Piô XII (1939-1958) khai mở sau những đau thương tàn khốc của Thế chiến II (1939-1945). Hoà bình là sứ điệp của Năm Thánh 1950. Châu Âu bị phân làm 2 khối Tự do và Cộng sản nên những người Công Giáo tại Ðông Âu Cộng sản không thể đến Rôma dự Năm Thánh. Cũng trong Năm Thánh này (01.11.1950), Ðức Thánh Cha công bố tín điều Ðức Mẹ Hồn Xác Về Trời ở Công trường Thánh Phêrô với sự hiện diện đông đảo của khoảng 500.000 tín hữu và 622 giám mục.
26. Năm 1975 : Ðược mở ra dưới triều Ðức Phaolô VI (1963-1978), Năm Thánh này mang ý nghĩa Canh tân và Hoà giải, như được trình bày trong tông huấn Gaudete in Domino ("Hãy vui mừng trong Chúa") của ngài. Điểm nổi bật của Năm Thánh 1975 là cử hành trước tại
các Giáo Hội địa phương từ lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 10/6/1973 và kết thúc vào lễ Giáng Sinh 1974, để từ ngày này tập trung cử hành tại Rôma. Năm Thánh 1975 là Năm Thánh cuối cùng trong lịch sử Giáo Hội mà một vị Giáo hoàng khai mở bằng cách đập búa vào tường che Cửa Thánh ở Ðền Phêrô. Khi kết thúc Năm Thánh 1975, Ðức Phaolô VI đã không còn tiếp tục truyền thống xây tường gạch che phủ Cửa Thánh nữa.
27. Năm 1983 : Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II công bố Tông sắc Aperite Portas Redemptori ("Hãy mở Cửa cho Ðấng Cứu Thế") vào ngày Lễ Hiển Linh 6.1.1983 để mừng Năm Thánh 1983 đánh dấu biến cố Ðức Giêsu đã chết cho nhân loại cách 1.950 năm trước đó. Ðây là Năm Thánh ngoại lệ như Năm Thánh ngoại lệ 1933. Năm Thánh 1983 - khai mạc ngày 25/3/1983 và kết thúc ngày 22/4/1984 - cũng được mừng nhằm chuẩn bị Năm Thánh 2000 sắp đến.
28. Năm 2000 : Hướng đến thiên niên kỷ thứ ba sắp đến và đánh dấu 2.000 năm biến cố Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Ðức Gioan Phaolô II đã ban hành Tông thư Tertio Millennio Adveniente ("Ngàn Năm thứ Ba đang tới") từ năm 1994 để kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn để đón nhận ân sủng cao quý Thiên Chúa ban cho trong Đại Năm Thánh 2000. Ngoài ra, trong ba năm chuẩn bị gần (1997, 1998, 1999), tín hữu cũng được mời gọi học hỏi các chủ đề Chúa Con, Chúa Thánh Thần và Chúa Cha. Vào ngày 29.11.1998 tức Chúa Nhật I Mùa Vọng, Ðức Gioan Phaolô II đã ban hành Tông sắc Incarnationis Mysterium ("Mầu Nhiệm Nhập Thể") chính thức công bố sẽ mở Năm Thánh 2000 bắt đầu vào Ðêm Vọng Giáng Sinh 24.12.1999 và kết thúc vào ngày Lễ Hiển Linh 06.01.2001. Năm Thánh được cử hành cùng lúc tại Rôma và các Giáo Hội địa phương. Chủ đề của Năm Thánh 2000 là Thiên Chúa Ba Ngôi, Bí Tích Thánh Thể và sự hiệp nhất. Năm Thánh 2000 là Năm Thánh đầu tiên mà chính Đức Giáo hoàng mở Cửa Thánh cả bốn Ðền thờ lớn tại Rôma : Ðền Thánh Phêrô (Lễ Ðêm 24.12.99), Ðền Thánh Gioan Latêranô (Lễ Giáng Sinh 25.12.99), Ðền Ðức Bà Cả (Lễ Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa, 01.01.2000), Ðền Thánh Phaolô Ngoại Thành (bắt đầu Tuần cầu nguyện hiệp nhất kitô-hữu, 18.01.2000).
Thế Hùng tổng hợp [nguồn http://www.cuuthe.com/bao/s162lsnthanh.html]
Trong thập niên đầu Ngàn năm thứ ba, Giáo Hội Việt Nam có Năm Thánh Truyền Giáo ghi dấu 470 năm Tin Mừng được loan báo trên quê hương Việt Nam (1533-2003). Năm Thánh bắt đầu từ lễ Giáng Sinh 25/12/2003 đến Lễ Hiển Linh 02/01/2005. Giáo Phận Đàlạt cũng có một Năm Thánh nhân kỷ niệm 80 năm người tín hữu bản địa đầu tiên - bà Maria K'Trut - được lãnh nhận Phép rửa (07/12/1927-2007). Năm Thánh kéo dài từ chúa nhật 29/10/2006 đến lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm 08/12/2008.

LỊCH SỬ NĂM THÁNH LỊCH SỬ NĂM THÁNH Reviewed by huy dung on 20:51:00 Rating: 5