Mất
cảm thức về tội là một thực trạng đáng lo lắng, đau buồn, vì hậu quả
của nó là sự phủ nhận Thiên Chúa. Thiên Chúa bị khai trừ không chỉ trong
hình thức sống đạo, mà còn bị phá sản ngay trong lương tâm con người.
***
Dịp
Tết Nguyên đán vừa qua, tôi có dịp tiếp xúc với một người được coi là
“khô khan nguội lạnh”. Cuộc gặp gỡ hiếm hoi ấy đã để lại trong tôi nhiều
trăn trở, nhất là về đời sống đức tin. Thế rồi hôm nay, khi suy gẫm về
ngắm thứ nhất mùa Mừng: “Chúa Giêsu sống lại, ta hãy xin cho được sống
lại thật về phần linh hồn”, tôi bỗng ngộ ra một điều là: Mình phải
thường xuyên xin ơn sống lại thật về phần linh hồn, nhất là ơn đức tin.
Thực vậy, cuộc sống hôm nay đầy dẫy những nguy cơ rất dễ làm cho ta đánh mất ơn đức tin, nhất là ba nguy cơ sau đây:
Nguy cơ thứ nhất là mất cảm thức về tội.
Nghĩa là ta phạm tội mà cứ cho rằng mình không phạm tội. Ta coi tội lỗi
trong cuộc sống hàng ngày như một việc bình thường. “Ai sao, tôi vậy.
Ai làm bậy, tôi theo”. Nguy cơ này đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII cảnh
báo như sau: “Cái tội nặng nề nhất của con người ngày nay là mất cảm
thức về tội”. Thực vậy! Con người thời nay đang bị đe doạ đủ điều, vì
lương tâm con người đã xuống dốc. Lương tâm đang bị biến dạng, bị tê
liệt từng ngày. Một khi lương tâm đã bị yếu nhược, thì cảm thức về Thiên
Chúa cũng bị lu mờ dần.
Xưa
kia cha ông ta bảo: “Khi mình phạm tội thì lương tâm sẽ cắn rứt”. Nhưng
ngày nay hình như nhiều người đã đánh mất lương tâm. Hay nói cách khác,
lương tâm của họ không còn “răng” để “cắn” nữa. Có lẽ vì thế mà người
ta đang truyền tai nhau câu nói: “Lương tâm không bằng lương tháng.
Lương tháng không bằng lương lậu. Lương lậu không bằng lươn lẹo”.
Mất
cảm thức về tội là một thực trạng đáng lo lắng, đau buồn, vì hậu quả
của nó là sự phủ nhận Thiên Chúa. Thiên Chúa bị khai trừ không chỉ trong
hình thức sống đạo, mà còn bị phá sản ngay trong lương tâm con người.
Nguy cơ thứ hai là dửng dưng với ơn Chúa.
Ơn Chúa tựa như cơn mưa rào; dửng dưng với ơn Chúa là tự chuốc lấy sự
héo khô trong tâm hồn. Ơn Chúa tựa như ánh sáng; dửng dưng với ơn Chúa
là tự khép mình trong bóng tối. Ơn Chúa là Sự Sống; dửng dưng với Sự
Sống là đi vào cõi chết phần linh hồn. Ơn Chúa là Sự Thật; dửng dưng với
Sự Thật là để cho sự dối trá khuynh đảo đời mình. Ơn Chúa là Con Đường;
dửng dưng với Con Đường là để cho mình sa vào cõi lầm đường lạc lối.
Con
người chúng ta, ai cũng có trí khôn, ý chí và tự do. Vì thế, ta có thể
đón nhận hay không đón nhận ơn Chúa. Ta có thể sinh hoa kết trái tốt,
nhưng cũng có thể chẳng có hoa trái nào. Điều đó tùy thuộc vào ta có
biết đón nhận ơn Chúa hay không; có nhiệt tình cộng tác với ơn Chúa hay
không. Nghĩ tới đây, tôi cảm thấy lo lắng cho bản thân mình, bởi vì rất
nhiều lần tôi đã dửng dưng với ơn Chúa, đã từ chối ơn Chúa.
Dửng
dưng với ơn Chúa là một thực trạng đáng lo lắng, đau buồn, vì hậu quả
của nó là sự phủ nhận Thiên Chúa. Thiên Chúa bị khai trừ không chỉ trong
hình thức sống đạo, mà còn bị phá sản ngay trong lương tâm con người.
Nguy cơ thứ ba là chối bỏ đức tin.
Khi chối bỏ đức tin, ta tự tách mình ra khỏi “Nguồn Sự Sống” là chính
Chúa. Từ đó ta rất dễ dàng phạm tội. Ta đã tự nguyện trở thành nô lệ cho
sự dữ. Ta liều mình để cho thế lực của bóng tối, của Satan làm chủ đời
mình. Hậu quả là ta không thể tự mình thoát ra khỏi “cái vòng kim cô”
ấy.
Tôi
đã từng được nghe nói về người này, người nọ… Trước kia họ cũng là con
nhà “đạo gốc, đạo dòng”. Đức tin cũng đã một thời thắp sáng trong cõi
lòng họ. Nhưng bây giờ, họ đã chối bỏ tất cả. Họ không còn làm Dấu Thánh
giá. Không còn lãnh nhận các Bí tích. Không còn đi nhà thờ… Tệ hơn nữa,
họ còn dùng sự hiểu biết nhỏ nhoi của họ để chỉ trích Giáo hội, công
kích đạo Chúa.
Tại
sao vậy? Chắc có nhiều lý do và hoàn cảnh khiến họ chối bỏ đức tin. Một
trong những lý do ấy là họ đã không chịu tìm hiểu Giáo lý Công giáo cho
thấu đáo. Cái nhìn của những ngày còn bé, thì khác xa với cái nhìn của
giai đoạn trưởng thành. Thực vậy, khi còn bé, ta ngước mặt nhìn lên
trời, nhưng khi đã trưởng thành, ta lại cúi mặt nhìn xuống đất. Khi còn
bé, ta sống thật lý tưởng, nhưng khi đã trưởng thành, ta bắt đầu biết
phê bình.
Có
thể ta tài giỏi trong lãnh vực nghề nghiệp và chuyên môn, nhưng trong
lãnh vực tôn giáo, ta vẫn giẫm chân tại chỗ. Ta vẫn chỉ là một đứa bé
ngây ngô với những bước chân chập chững, nếu không muốn nói là đã thụt
lùi.
Thực
tế cho thấy, có những điều ngày xưa ta thán phục và cảm mến. Nhưng bây
giờ lại trở thành một vấn đề, một dấu chấm hỏi, khiến ta phân vân, không
biết đàng nào phải, đàng nào trái. Đức tin của ta có lý, hay chối bỏ
đức tin mới là có lý?
Chối
bỏ đức tin là một thực trạng đáng lo lắng, đau buồn, vì hậu quả của nó
là sự phủ nhận Thiên Chúa. Thiên Chúa bị khai trừ không chỉ trong hình
thức sống đạo, mà còn bị phá sản ngay trong lương tâm con người.
Trước những nguy cơ trên đây, ta phải làm thế nào để làm cho ơn đức tin được sống lại?
Thưa, ta chỉ có thể thoát ra khỏi bóng đen u ám của những nguy cơ trên
đây nhờ Đức Giêsu mà thôi. Thánh Phaolô nói: “Đức Giêsu chính là Đấng đã
bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại,
để chúng ta được nên công chính” (Rm 4, 25), vì Ngài đến để cứu chuộc
kẻ tội lỗi, để hàn gắn các mối liên lạc đã bị cắt đứt giữa Thiên Chúa và
con người (Lc 19, 10). Chính Chúa sẽ giúp cho ta phục hồi lại những gì
mình đã đánh mất. Chính Chúa sẽ làm cho ta được “ơn sống lại thật về
phần linh hồn”, cho ta sống lại ơn đức tin.
Phần
ta, hãy siêng năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Hòa giải và
Bí tích Thánh thể. Chuyên chăm cầu nguyện, gắn bó mật thiết với Chúa là
“nguồn ơn đức tin”. Yêu mến và trung thành với Giáo hội là “máng chuyển
ơn đức tin”. Yêu thương phục vụ mọi người, vì đó là “những nhịp cầu hỗ
trợ ơn đức tin”. Sống như thế là ta đang biến đức tin của mình thành
hành động.
Và
nếu có lúc nào đó, ta rơi vào khoảng không đen tối của đức tin, thì xin
đừng hoảng sợ. “Cứ tín thác đường đời cho Chúa. Chính Ngài sẽ ra tay”
(Tv 36). Kinh nghiệm cho thấy: Nếu không có bầu trời đen, chẳng ai nhìn
thấy những vì sao.
Maria Vũ Nguyễn Ánh Hương
(danchuahiepthong)
0 $type={blogger}:
Đăng nhận xét