Nhà
nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện đã làm một cuộc so sánh khá hay giữa chủ
nghĩa Mác và Nho giáo, căn cứ trên kinh nghiệm sống của bản thân ông là
một nhà cộng sản kỳ cựu, xuất thân từ một gia đình “làm quan”, thấm
nhuần đậm tinh thần Khổng giáo.
Nho sĩ và người mác-xít
Nguyễn
Khắc Viện cho rằng người Mác-xít tìm thấy nơi Nho giáo một quan điểm
hoàn toàn như mình là phục vụ xã hội, phục vụ đất nước. Từ gốc rễ của
phong trào Nho giáo bên Trung Quốc, nhà nho là người được đào tạo để
giúp vua trị nước. “Chủ nghĩa Mác không làm cho các nho sĩ bị ngỡ ngàng
khi tập trung suy nghĩ về các vấn đề chính trị và xã hội, học thuyết nho
giáo cũng có cùng một mục tiêu suy nghĩ tương tự ” (Nguyễn Khắc Viện, sđd,
tr 38). Nơi khác, Nguyễn Khắc Viện viết: “Nho giáo khác với những tôn
giáo, hướng suy nghĩ con người hoàn toàn vào cuộc sống xã hội, cho nên
đứng trên một bình diện chung với người Mác-xít’ (tr. 47).
Theo tác giả, điểm khác biệt căn bản giữa chủ nghĩa Mác và Nho giáo là ở tính chất khoa học (x. sđd,
tr 42). Để cải tổ xã hội, chủ nghĩa Mác dựa trên phân tích khoa học về
xã hội và lịch sử để rút ra những quy luật phát triển và đưa ra những kế
hoạch hành động phù hợp với thực tế khách quan, trong lúc đó thì Nho
giáo chỉ đứng trên quan điểm thuần tuý đạo đức để hành động (x. sđd, tr 38). Dĩ nhiên người chiến sĩ Mác-xít có thể vận dụng chủ nghĩa đạo đức chính trị của nho giáo cho chính mình (x. sđd, tr 38), như cụ Hồ Chí Minh đã làm trong cuốn “Sửa đổi lề lối làm việc”, nhưng chỉ có đạo đức mà thôi thì chưa đủ.
Theo Nguyễn Khắc Viện, chủ nghĩa Mác so với Nho giáo thiếu mất phần đạo lý. Kể
lại con đường ông đã đi theo chủ nghĩa Mác như thế nào, tác giả viết:
“…Dần dần tôi bị cuốn hút vào trào lưu Mác-xít. Lòng yêu nước, những
hiểu biết về khoa học, tiếp xúc với nhân dân tiến bộ Pháp, dễ dàng dẫn
tôi đến chủ nghĩa Mác. Nhưng dù sao vẫn thấy thiếu hụt một chút gì đây,
thoả mãn mới 90-95% thôi. Về sau mới hiểu là thiếu hụt phần ‘Đạo lý’” (sđd,
tr 56). “Phân tích xã hội để hiểu rõ lịch sử, xác định đường lối thì
chủ nghĩa Mác hơn hẳn, nhưng Mác trong đạo lý không được nổi bật và cụ
thể như trong nho giáo. Có thể nó không có học thuyết chủ nghĩa nào đặt
vấn đề ‘xử thế’ rõ ràng và đầy đủ như vậy…” (sđd, tr 58). Tóm lại “Mác coi nhẹ mặt xử thế, tu thân” (tr 59).
Trước
đó khoảng vài chục trang, tác giả quả quyết người cách mạng phải có đạo
đức, “không đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân” (tr. 41), rồi lại quả quyết ngày nay chủ nghĩa Mác thay thế cho nho
giáo (…), tạo cơ sở cho một nền đạo đức mới đã thay thế cho luân lý nho
giáo” (tr 43). Nền đạo đức đó là đạo đức cách mạng.
Đạo đức cách mạng và đạo đức Nho giáo
Theo
Nguyễn Khắc Viện, đạo đức Nho giáo đã lỗi thời và đã được đạo đức cách
mạng thay thế. Nhưng có thể nêu câu hỏi: Thay thế như thế nào ?
Bây
giờ người cộng sản Việt Nam thường xuyên nói tới đạo đức cách mạng, mà
tiêu biểu cho nền đạo đức ấy là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nên cán bộ đảng
viên phải ra sức học tập và noi gương. Khi mô tả nội dung đạo đức cách
mạng hoặc khi nói về đạo đức Hồ Chí Minh, người ta nêu ra một loạt những
đức tính mà ta có thể phân ra làm ba loại.
1.
Trước hết, đó là những đức tính luân lý căn bản mà một con người tốt
phải có như: lòng nhân ái, vị tha, sự thành thực, tinh thần trách nhiệm,
lòng tự trọng, khiêm tốn, trung tín (giữ lời hứa). Chúng ta có thể gặp
thấy chúng nơi những con người tốt thuộc bất cứ xã hội nào, giai cấp
nào. Có thể nói chúng thuộc về đạo đức làm người.
2.
Kế đến là những đức tính được đề cao trong truyền thống đạo đức dân tộc
Việt, chẳng hạn lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết khi nước lâm nạn,
hiếu học, tôn sư trọng đạo, hiếu khách, cần cù, nhẫn nại.
3. Thứ ba là những đức tính còn mang đậm ảnh hưởng của Khổng giáo. Trong cuốn “Sửa đổi lề lối làm việc”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói tới chí công vô tư và nhân, nghĩa, trí, dũng,
liêm. Chủ tịch áp dụng những điều tốt ấy vào môi trường cách mạng để rèn
luyện cán bộ đảng viên. Chẳng hạn: “Nhân là thật thà thương yêu, hết
lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào… Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm,
không làm việc bậy, không có gì phải giấu Đảng; ngoài lợi ích Đảng,
không có lợi ích riêng phải lo toan… Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc
phải làm có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Có gan chống lại
những sự vinh hoa phú quý không chính đáng. Nếu cần thì có gan hy sinh
cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát”…
(Trích theo Nguyễn Khắc Viện, sđd, tr 40).
Đó
là đạo đức cách mạng. Đó là đạo đức Nho giáo được chuyển về những đối
tượng mới là Đảng, nhân dân, Tổ quốc. Sự chuyển đổi đối tượng và ý nghĩa
nguyên thủy của đạo đức Nho giáo, ta còn thấy rõ trong cách người cộng
sản giải thích hai khái niệm cơ bản của tư tưởng đạo đức Nho giáo: Trung
và Hiếu. Trung không còn là trung với vua, hiếu không còn là hiếu với
cha mẹ, nhưng là “trung với nước, hiếu với dân, suốt đời chiến đấu hy
sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và hạnh phúc của
nhân dân” (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Đạo đức học, (dùng cho Hệ Cử nhân chinh trị), nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 199).
Như
vậy, đạo đức cách mạng, đạo đức Hồ Chí Minh như được trình bày trên đây
chưa có gì thực sự độc đáo, mới mẻ. Cả những khai triển mở rộng và
thích nghi của đạo đức cách mạng với hoàn cảnh mới (mở cửa, kinh tế thị
trường, toàn cầu hoá) cũng không có gì khác.
Tóm
lại đạo đức cách mạng đã thay thế đạo đức nho giáo bằng cách vận dụng
nó, chuyển đổi môt phần ý nghĩa của nó và gột rửa hết những gì mang tính
phong kiến trong đó để đưa vào trong đạo đức cách mạng, biến nó thành
đạo đức cách mạng.
Đạo đức cách mạng thực chất là gì?
Nhưng
theo tôi, những nội dung đuợc mô tả trên đây về đạo đức cách mạng chưa
phải là đạo đức cách mạng đúng nghĩa, vì không cho thấy rõ đặc trưng của
đạo đức cách mạng là gì. May ra thì có vài chi tiết nhỏ có thể coi là
dấu chỉ về nét đặc trưng, trong đoạn trích của cuốn Sửa đổi lề lối làm việc, ở đó đồng chí (người cùng Đảng) được đặt trước (tức là trên) đồng bào, và Đảng trước nhân dân, trước tổ quốc.
Nhưng không biết chắc khi sắp xếp thứ tự như thế Hồ Chí Minh có chủ ý
hay chỉ là tình cờ. Có điều rõ ràng là ngay từ thời đầu Cách mạng, cụ Hồ
đã dạy: đối với người đảng viên, không còn lợi ích riêng tư nào nữa mà
chỉ có lợi ích của Đảng, và phải dám chết vì Đảng.
Theo
học thuyết Mác-Ăngghen, không có nền đạo đức chung cho mọi người mọi
nơi; đạo đức không phát sinh từ ý muốn của Thượng Đế hay ý niệm tuyệt
đối, hoặc từ lý trí hay bản tính con người, nhưng từ điều kiện sinh hoạt
vật chất, đặc biệt là tình trạng kinh tế của xã hội, do đó nó luôn thay
đổi và luôn mang tính giai cấp. Giai cấp thống trị có đạo đức của họ
cũng như giai cấp bị trị có đạo đức của riêng mình. Đạo đức cách mạng là
đạo đức của giai cấp công nhân. Tiêu chuẩn để xác định cái gì tốt cái
gì xấu trong đạo đức cộng sản đã được Lênin nêu rõ: “Đạo đức của chúng
ta hoàn toàn lệ thuộc vào các lợi ích cuộc đấu tranh giai cấp của giai
cấp vô sản” (trích theo Gustave Wetter, Sowjet Ideologie heute,
Fischer Buecherei, Frankfurt 1962, tr 262). Cuộc đấu tranh này nhằm giải
phóng giai cấp vô sản và thiết lập một xã hội vô giai cấp trong đó
không còn cảnh người bóc lột người nhưng mọi người sẽ coi nhau như anh
em và được sống tự do hạnh phúc.
Vậy
tại sao nhà cộng sản Nguyễn Khắc Viện lại bảo học thuyết Mác thiếu phần
đạo lý ? Rõ ràng ông Viện phân biệt đạo đức cách mạng với đạo lý theo
nghũa tu thân, xử thế. Các Mác không bàn đến tu thân xử thế. Ông không
quan tâm tới cá nhân. Cá nhân luôn được nhìn trong tập thể, qua tập thể.
Về sau các nhà cộng sản phải xây dựng một nền đạo đức mới cho đảng
viên, cán bộ. Nhưng nền đạo đức đó cũng rất coi nhẹ “đạo lý”. Hiểu theo
nghĩa hẹp thì đạo đức cách mạng không dạy người ta phải biết cư xử ở đời
sao cho phải đạo làm người, nhưng phải làm gì để thành “người cách
mạng” (cụ thể làm người cộng sản, một con người đấu tranh giải phóng dân
tộc và giải phóng giai cấp vô sản bị bóc lột…).
Ở
Việt Nam ngày nay, người cộng sản thường ghép đạo đức cách mạng vào đạo
đức dân tộc và đạo đức làm người. Có thể là vì người ta hiểu đạo đức
cách mạng một cách mơ hồ hoặc ít nhất là rộng rãi, cởi mở (như Cụ Hồ
thời đầu Cách Mạng chăng?), hoặc vì người ta muốn làm cho nó gần gũi
hơn, dễ chấp nhận hơn. Nhưng về mặt lý luận, dường như điều đó không hợp
lý, nếu hiểu đạo đức cách mạng theo nghĩa chặt chẽ. Vì sao ? Vì người
ta không thể đơn giản lấy những phạm trù, những giá trị của hệ thống đạo
đức này bỏ qua một hệ thống khác mà không làm thay đổi chúng trừ ra khi
cả hai hệ thống đều có cùng một hệ quy chiếu chung. Bây giờ người cộng
sản thích nói tới lòng nhân; nhưng lòng nhân trong đạo đức cách mạng có
một nghĩa khác với lòng nhân trong nho giáo vì đôi bên quan niệm “con
người” khác nhau (chẳng hạn, chủ nghĩa cộng sản coi hoạt động lao động
sản xuất “là bản chất sâu xa nhất của con người” (Giáo trình Đạo đức học,
tr 101). Lòng nhân trong Nho giáo, cho dù mang màu sắc giai cấp phong
kiến, nhưng vẫn đặt cơ sở cuối cùng trên “Trời” và trên bản tính con
người (nhân chi sơ tính bản thiện) (x.Nguyễn Khắc Viện, sđd,
tr 43 và tr 19-20); do đó nó có một giá trị “phổ quát”, dễ được mọi
người chấp nhận. Thiết tưởng một người không theo Đạo Khổng ở Đông hay ở
Tây phương đều có thể hiểu và chấp nhận những quy tắc sống của nho giáo
như: “Thấy điều thiện phải cố làm như không bao giờ kịp, thấy điều bất
thiện thì phải sợ hãi như thò tay vào nước sôi” (Luận Ngữ); “mình tự
trách mình nhiều mà trách người ít, thì xa được điều oán hận” (Luận
Ngữ); “ăn gạo xấu, uống nước lã, gấp cánh tay mà gối đầu, tuy thế cũng
có cái vui ở trong đó; làm điều bất nghĩa mà giàu sang thì ta coi như
đám mây nổi” (Luận Ngữ); “người ta không thể không có lòng xấu hổ về
điều mình làm bậy. Nếu ai đã biết lòng xấu hổ về điều vô sỉ thì không có
điều gì đáng xấu hổ nữa” (Mạnh Tử)… Những quy tắc sống như thế ắt sẽ
bị các nhà cộng sản – trong tư cách là cộng sản – coi là đạo đức tiểu tư
sản, làm nhụt ý chí đấu tranh của người cách mạng! Nhưng đạo đức cách
mạng thì chỉ dành cho người cộng sản mà thôi.
Một
đoạn trong cuốn sách của Nguyễn Khắc Viện giúp tôi đoán hiểu hàm ý của
ông khi phân biệt đạo đức mác-xít với đạo lý nho giáo. Ông viết:
“Tôi
thích thú tinh thần có mức độ, ứng xử vừa phải của đạo nho. Không cường
điệu lên và yêu hết mọi người ngang nhau, mà bảo phải yêu bố mẹ mình,
vợ con mình đã rồi mới đến yêu người khác… Nhận rõ điều gì là phi pháp,
nhưng không nhẫn tâm đến mức đi tố cáo bố mẹ với nhà chức trách. Vì cao
hơn pháp luật là tình người, là lòng nhân” (sđd, tr 58).
Tôi
nghĩ tác giả viết câu này hoàn toàn không phải trong tư cách là một nhà
cộng sản (chính thống). Cách nay mấy chục năm, không biết các lý thuyết
gia cộng sản nghĩ gì khi đọc ý kiến này ? Chắc họ đã coi tác giả là
người thiếu lập trường giai cấp, thiếu tinh thần đấu tranh cách mạng, vì
theo đạo đức cách mạng, không thể đặt tình người, lòng nhân cao hơn mục
tiêu cách mạng hay chủ trương của Đảng được. Câu viết làm cho những ai
đã sống trong giai đoạn sôi sục của phong trào cải cách ruộng đất ở miền
Bắc từ năm 1953 đến 1956, nhớ lại những cuộc đấu tố đầy bạo lực lật đổ
giai cấp địa chủ và cường hào ác bá, kẻ thù của “nhân dân”. Hàng ngàn
người đã chết trong đợt cải tạo xã hội này. Trong cuộc đấu tranh này,
chuyện con cái đấu tố cha mẹ, trò đấu tố thầy, bạn bè đấu tố nhau, kẻ
chịu ơn đấu tố người ân nhân của mình, mỗi người nhìn kẻ khác như một kẻ
thù tiềm tàng (virtuel)… – đó là chuyện bình thường và, mặc cho ông
Viện coi là thiếu “đạo lý”, họ vẫn được Đảng coi là “đạo đức”. Nhưng
thiếu đạo lý là thiếu đạo làm người, cũng có nghĩa là thiếu lòng nhân,
tức là thiếu “tính người và tình người” (Nguyễn Khắc Viện, sđd, tr 58), hay thiếu mất cái “đức tính tối cao khiến con người trở ‘Con Người’ nhất” (sđd,
tr 20). Một cái thiếu “nghiêm trọng”. Những người tổ chức cuộc đấu tố
và những người đứng ra đấu tố như thế đã đặt quan điểm giai cấp lên mọi
tình cảm, mọi quan hệ xã hội khác. Và điều này ăn khớp hoàn toàn với
quan niệm cộng sản về giai cấp. Cũng vì thế mà đạo đức cách mạng dạy
phải tuyệt đối trung thành với Đảng (của giai cấp công nhân) và sẵn sàng
chết cho Đảng như người tín đồ sống chết cho “Đức Chúa” của mình.
Kết luận
Bài
phân tích này, khởi đi từ một câu viết của nhà nghiên cứu cộng sản
Nguyễn Khắc Viện, đưa tôi đến nghi vấn: một nền đạo đức của một xã hội,
một tập thể hay của một giai cấp mà không có “đạo lý” thì có còn là một
nền đạo đức thật hay không ? Vì nền đạo đức nào thì cũng phải nhìn nhận
một số giá trị quy chuẩn vượt lên trên chính xã hội sinh ra nó, như nhân
phẩm, nhân tính, luật tự nhiên, lý tính, hay Thượng đế – những điều mà
đạo đức mácxít phủ nhận. Nhưng khi chọn những giá trị khác thay thế vào
đó như tiền tài, danh vọng, nòi giống, quốc gia, giai cấp, thì đạo đức
không những mất đi cái nền tảng vững vàng mà còn dễ dàng trở nên phi
nhân như lịch sử đã cho thấy và vẫn còn cho thấy. Người cộng sản bảo:
đạo đức cũng như những hình thái “ý thức xã hội” khác (như tôn giáo, văn
học, triết học…) chỉ là phản ánh của một tình hình kinh tế nhất định
nào đó, nhưng xin hỏi: tình hình xã hội chỉ là một “thực tế”; vậy từ cái
“là” – cái thực tế – làm sao trở thành cái “phải là” (tức đạo đức)
được? Tính bó buộc hay tính lý tưởng của đạo đức không thể dựa trên thực
trạng kinh tế hay xã hội.
Tôi
cũng biết đảng cộng sản đã khởi sự công cuộc đổi mới từ mấy thập niên
qua, nhưng đó là những đổi mới trên các mặt đời sống kinh tế, văn hoá,
xã hội, đối ngoại, còn trên bình diện học thuyết thì cơ bản vẫn giữ
nguyên, các tài liệu giáo khoa về chủ nghĩa Mác-Lênin có đưa vào một đôi
giải thích và áp dụng cởi mở hơn trước, nhưng cũng chỉ là những chi
tiết chắp vá vào một tổng thể đã “hoàn chỉnh” mà thôi. Vì thế mà trong
bài viết, tôi không tính đến cuộc đổi mới này.
Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô (24/8/2011)
(nguoitinhuu.com)